Lịch Can chi biện luận

Cổ văn Tiên Thiên bát quái, Kinh Dịch và Đạo Đức Kinh được người Hán sao chép và ghi lại bằng Hán tự vào vận Tử của văn minh Động Đình Hồ (2613BC – 2313BC, tương ứng với nhà Hạ của phong kiến Trung Quốc). Điều này cũng trùng thời điểm với đĩa sao chép Phaistos do người Minoan ghi lại từ văn minh nguyên thủy Ai cập. Cho nên, để hiểu đúng nghĩa thì một số bính âm cần chuyển sang âm tiết Nôm Việt, và chỉ có con dân Bách Việt mới hiểu rõ cổ văn của tổ tiên để lại. Từ lịch sử có thể giải nghĩa hai chồng quái Địa Thiên Thái và Thiên địa Bĩ như sau:
Địa Thiên Thái
Thoán từ: 泰 小 往 大 來 吉亨 (thái tiểu vãng đại lai cát hanh).
THÁI là thời của cái lớn cái vĩ đại đã quay lại và thời của cái nhỏ, cái phổ biến đã qua. Thời của tốt lành và hanh thông.
*Hào 1: 拔 茅 茹 以 其 彙 征 吉 (bạt mao như dĩ kì vị chinh cát).
Ứng vận Sinh: Nhổ cỏ như đánh giặc phương xa thì tốt. Thời Sinh, việc khai hoang lấy đất trồng trọt chăn nuôi là chính yếu, nên cần chú trọng việc nhổ cỏ dại xâm lấn.
*Hào 2: 包 荒 用 馮 河 不 遐 遺 朋 亡 得 尚 于 中 行 (bao hoang dụng phùng hà bất hà di bằng vong đắc thượng vu trung hành).
Ứng với vận Mộc Dục: Thời phát triển mà bỏ hoang đất đai, dùng kẻ hữu dũng vô mưu, qua cầu rút ván thì chết cả đám. Cho nên, Bề trên (pháp sư) cần giữ lòng trung chính trong việc làm và dùng người.
*Hào 3: 无 平 不 陂 无 往 不 復 艱 貞 无 咎 勿 恤 其 孚 于 食 有 福 (vô bình bất pha vô vãng bất phục gian trinh vô cữu vật tuất kì phu vu thực hữu phúc).
Ứng với vận Quan Đới: Không bằng phẳng thì chẳng nghiêng lệch. Không chết đi thì chẳng có quay lại (sinh ra). Gian truân không phải là xấu. Thất bại không phải là hèn (chớ tiếc việc gì kết quả không như lòng tin và công sức của mình – vật tuất kì phu), vượt qua được thì vừa có cái ăn vừa có phúc. Tức những miếng ăn kiếm được dễ dàng thì không có phúc, việc rèn luyện trong vận Quan Đới rất cần thiết để chuyển hóa xã hội sang vận Lâm Quan.
*Hào 4: 翩 翩 不 富 以 其 鄰 不 戒 以 孚 (phiên phiên bất phú dĩ kì lân bất giới dĩ phu).
Ứng với vận Lâm Quan: Xã hội phong lưu văn nhã, không phân biệt kẻ giàu người nghèo, nhà cửa không cần hàng rào, lấy chữ Tín Nghĩa làm tôn chỉ (Thế giới đại đồng).
*Hào 5: 帝 乙 歸 妹 以 祉 元 吉 (đế ất quy muội dĩ chỉ nguyên cát) .
Ứng với vận Đế Vượng: Thiên can Ất (Âm Mộc) quy phục làm em gái (Thiên can Giáp – Dương Mộc) thì thật có phúc và tốt lành to lớn (帝 – Đế – Thần). Tức là thời Đế Vượng, Âm Dương ngũ Hành đã vào đúng vị thế của mình.
*Hào 6: 城 復 于 隍 勿 用 師 自 邑 告 命 貞 吝 (thành phục vu hoàng vật dụng sư tự ấp cáo mệnh trinh lận).
Ứng với vận Suy: Đắp thành rồi đào ao, chớ dùng thầy, tự mình chiêu mộ quân đội mà giữ mạng sống, giữ lòng trung trinh sẽ hối hận. THÁI CỰC BĨ LAI. Lúc này cần đắp thành lũy mà giữ đất, tự mình mà chống giữ không tin ai kể cả thầy của mình. Đây là lúc bắt đầu chiến tranh loạn lạc vàng thau lẫn lộn và thời BĨ đang đến.

Thiên Địa Bĩ
Thoán từ: 否之匪人不利君子貞大往小來 (phủ chi phỉ nhân bất lợi quân tử trinh đại vãng tiểu lai).
Bế tắc là giặc cỏ, giặc cướp làm bất lợi cho người quân tử muốn giữ lòng trung chính. Thời của cái vĩ đại đã qua, thời cái nhỏ nhen quay lại.
*Hào 1: 拔茅茹以其彙貞吉亨 (bạt mao như dĩ kì vị trinh cát hanh).
Ứng với vận Bệnh: Nhổ cỏ như giữ tấm lòng trong sạch thì tốt và hanh thông. Bắt đầu của thời Bế tắc, đã có sự phân hóa giai cấp, phân biệt giàu nghèo, văn hóa vật chất phương Bắc bắt đầu xâm lấn. Vận này chi có những người trồng trọt (làm cỏ, nhổ cỏ) với tấm lòng trong sạch, không đua chen, tranh đoạt vì lợi ích trước mắt mới có phần tốt lành và hanh thông.
*Hào 2: 包承 小人吉 大人否 亨 (bao thừa tiểu nhân cát đại nhân phủ hanh).
Ứng với vận Tử: Tiếp tục bế tắc, tiểu nhân thừa cơ tàn phá nền văn minh, đại nhân (pháp sư) không còn thông (kết nối) với thế giới Tâm linh (Phật Pháp) – phủ hanh (tắc thông).
*Hào 3: 包羞 (bao tu).
Ứng với vận Mộ: Sau vận Tử thì việc thờ cúng bởi các Pháp sư không còn linh nghiệm.
Hào 4: 有命 无咎疇離祉 (hữu mệnh vô cữu trù li chỉ) .
Ứng với vận Tuyệt: Pháp sư nhờ có mệnh Trời nên không sao, nhưng ruộng lúa thì không được ban phúc bởi Phật Pháp.
*Hào 5: 休否 大 人吉其亡 其亡 繫于苞桑 (hưu phủ đại nhân cát kì vong kì vong hệ vu bao tang).
Ứng với vận Thai: Ngừng bế tắc, đại nhân (pháp sư) tốt, nhờ ở chỗ mất, chỗ mất, quan hệ như những cây dâu (tang tóc) rậm rạp. Tức là ở vận này sẽ có sự mất đi các thế lực (phương Bắc) trói buộc qua chiến tranh giữa các thế lực này và toàn cầu sẽ bao phủ một mầu tang tóc (chết phần lớn). Cụm chữ “kì vong kì vong” cũng chỉ ra có sự quay lại (tái sinh. giáng thế) của Phật nhằm hồi sinh Phật pháp và dẫn dắt các pháp sư thai nghén cho nguyên sau. Chúng ta đang ở vận này (1887 – 2187), đầu vận đã xảy ra hai thế chiến và đang trong thời điểm khởi phát thế chiến ba. Cũng tương ứng với Sấm Trạng Trình của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585. “Năm trăm năm sau ta…Mười phần chết bảy còn ba, chết hai còn một mới ra thái bình”, một thời điểm trong khoảng 1991 – 2085).
*Hào 6: 傾否 先否 後喜 (khuynh phủ tiên phủ hậu hỉ) .
Ứng với vận Dưỡng: Đè úp vận Bĩ, những cái gì trước đó là bĩ thì sau chuyển thành niềm vui. Sau khi Phật giáng trần sẽ dựng lại Càn – Khôn, duy dưỡng cho nguyên mới bắt đầu vào vận Sinh .

Ảnh lấy từ nguồn:
https://diaoconline.vn/tin-tuc/the-gioi-kien-truc-c4/bia-da-vi-dai-o-aksum-i13084
https://vtcnews.vn/su-lui-tan-bi-an-cua-nen-van-minh-co-dai-olmec-ar321999.html

Leave a Comment